Chào mừng quý khách đến với website Dòng Họ Lê Quý !
     
 
   Tỷ giá
 
Lê Quí Đôn người có công đầu tiên nghiên cứu về xứ Đàng Trong
(Cập nhật ngày: 04/10/11 01:31 PM)
 
Lê Quý Đôn, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh ngày 2/8/1726, trong một gia đình khoa bảng; cha là tiến sĩ Lê Trọng Thứ, quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, chăm học. Năm 14 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Lúc ấy cậu bé 14 tuổi đã học xong toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia. 18 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn. Sau khi đã đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê - Trịnh, như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toản tu quốc sử quán (năm 1754), Hàn lâm viện thị giảng (năm 1757), Đốc đồng xứ Kinh Bắc (năm 1764), Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1767), Tán lý quân vụ, Thị phó đô ngự sử (năm 1768), Công bộ hữu thị lang (năm 1769), Bồi tụng (Phó thủ tướng) (năm 1773), Lại bộ tả thị lang kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Hiệp trấn tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (năm 1776), Hiệp trấn Nghệ An (năm 1783), Công bộ thượng thư (năm 1784)... Lê Quý Đôn mất ngày 1/5/1784 tại quê mẹ, làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay thuộc Hà Nam). Thi hài ông được đưa về mai táng ở quê nhà.

Tác phẩm của Lê Quý Đôn có thế kể đến như: Bắc sứ thông lục, Vân đài loại ngữ, Quần thư khảo biện, Toàn Việt thi lục…Phủ biên tạp lục, là tập bút ký của Lê Quý Đôn viết về Đàng Trong, nhất là xứ Thuận và xứ Quảng từ thế kỷ XVIII trở về trước. Năm 1776, Lê Quý Đôn giữ chức Hiệp trấn tham tán quân cơ ở Thuận Hoá. Trong sáu tháng ở đây, ông đã ghi chép lại tất cả những điều mắt thấy tai nghe và tập bút ký này được đặt tên là Phủ biên tạp lục. Tác phẩm giới thiệu về tình hình núi sông, thành quách, phong thổ, nhân vật của xứ Thuận Hoá và cho chúng ta biết danh số các phủ huyện, tổng, xã, thôn của xứ Thuận và xứ Quảng lúc đó.


Phủ biên tạp lục cung cấp nhiều tài liệu về chế độ ruộng đất, thuế khoá, chế độ trưng bình, binh chế của xã hội Đàng Trong từ thế kỷ XVIII trở về trước. Tác phẩm được chia làm 6 phần (tức là 6 quyển). Quyển I. Sự tích khai thiết khôi phục hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam. Danh số phủ, huyện, tổng, xã, thôn, trang trại hai xứ Thuận Hoá và  Quảng Nam. Quyển II. Hình thế núi sông, thành luỹ, trị sở, đường sá, bến đò, nhà trạm hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam. Quyển III. Số ngạch công tư điền trang và hoa châu, lệ cũ và tổng số thóc gạo trưng thu ở hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam; Lệ cũ và quan thuộc chức thủ các ty trấn dinh và về thi cử ở hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam; Lệ cũ và tổng số về số ngạch nhân đinh, duyệt tuyển các hạng, kén chọn lĩnh hạng, chia đặt quân hiệu ở hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam. Quyển IV. Lệ thuế đầu nguồn, tuần tu, đầm, hồ, chợ đò, thuế vàng bạc đồng sắt, và lệ vận tải ở hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam. Quyển V. Nhân tài, thơ văn. Quyển VI. Vật sản, phong tục
Đây là tác phẩm có giá trị của Lê Quý Đôn, là tài liệu quý cho các nhà nghiên cứu sử học, kinh tế học, địa lý học, dân tộc học…



Lê Quí Đôn viết về cảnh trao đổi hàng hóa ở Hội An: “ Thuyền từ Sơn Nam về chỉ mua được một thứ củ nâu, từ Thuận Hóa về chỉ mua được hồ tiêu, còn từ Quảng Nam (Hội An về thì mua hàng hóa không thứ gì mà không có. Phàm hóa vật sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Bình Khang và Nha trang, đường thủy bộ, đi thuyền đi ngựa đều hội tụ ở Phố Hội An. Trước đây hàng hóa nhiều lắm, dù một trăm chiếc tàu to chở một lúc cũng không hết”

Về xứ Mô Xoài nay thuộc tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu ông viết: ”Đời trước lập Gia Định, tất trước mở xứ Đông Nai, để cho quân dân hoàn tụ, rồi mới mở xứ Sài Gòn… Nay đất cũ tự Mỗi Soài đến Sài Gòn đường đi hai ngày… Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các biển Cần Giờ, Soài Lạp, cửa Đại, Cửa Tiểu, toàn là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm, họ Nguyễn chiêu mộ  những dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, các phủ Điện bàn, Quảng Ngãi, Qui Nhơn cho dời tới đây, phát chặt mở mang, hết thảy đều bằng phẳng, đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm, trồng cau, làm nhà cửa…Đất ấy nhiều ngòi lạch, đường nước như mắc cửi, không tiện đi bộ. Người buôn chở thuyền lớn thì tất đèo theo xuồng nhỏ để thông đi các kênh. Từ cửa biển đến đầu nguồn đi 6,7 ngày hết thảy là đồng, nhìn bát ngát, ruộng phẳng như thế đấy rất hợp trồng lúa, lúa nếp, lúa tẻ đều trắng dẻo.”

Lê Quý Đôn - nhà bác học lớn nhất Việt Nam dưới thời phong kiến thế kỷ XVIII, là tấm gương sáng về lao động học thuật cho các thế hệ hôm nay và mai sau, là một nho sĩ yêu nước luôn mang trong mình những hoài bão lớn lao, ông khao khát đưa xã hội Lê - Trịnh đến thái bình thịnh trị, mang lại cuộc sống bình an cho nhân dân. Khác với những nho sĩ đương thời, ngoài sự ham hiểu biết và đam mê đọc sách, ông đi nhiều và hiểu nhiều, luôn suy ngẫm đến cùng những sự vật hiện tượng diễn ra xung quanh và ghi chép lại tất cả những điều mắt thấy tai nghe. Đặc biệt những ghi chép của Lê Quí Đôn về chuyến đi vào những năm 1776 về mảnh đất miền trung và Nam bộ…(trước đó Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh đã kinh lược xong hơn 100 năm) hết sức chi tiết, cụ thể nhưng thật sinh động, khái quát, khách quan…mà các thế hệ sau này là những lưu dân người Việt ưa mạo hiểm, khao khát tìm đến miền đất mới đã vào phía nam tiếp tục khai phá ruộng đất, mở làng mở ấp…

Bài viết được gửi bởi Nguyễn Duyên Tâm
Email:
duyentam@gmail.com

(Nguồn:  Queluathaibình.com)



 
 

 Các tin khác
 
Yahoo Chat: Trợ lý
Yahoo Chat: Quan tri
Yahoo Chat: Trợ Lý
Skype Call: Hỗ trợ